Giới thiệu về di tích lịch sử trên địa bàn xã

22/09/2023 03:34

MỘT SỐ THÔNG TIN

VỀ ĐIỂM DI TÍCH LỊCH SỬ XÃ DÂN HÒA.

  1. PHẦN I. DI TÍCH LÀNG CANH HOẠCH

  1. ĐÌNH CANH HOẠCH

Người làng Vác rất tự hào về ngôi đình làng mình, truyền ngôn câu chuyện về bà chúa Thuận, tức bà Nguyễn Thị Ngọc Cẩn con trạng nguyên Nguyễn Thiến, năm 1551 cùng thông gia Lê Bá Ly quy thuận vua Lê, theo gia phả thời gian này, Nguyễn Thiến đã gả bà cho chúa Trịnh Kiểm. Sau khi nhà Mạc bị đẩy lên chiếm cứ Cao Bằng, bà ra ở kinh đô Thăng Long. Bà chúa Thuận có truyền sai người làng Gạo (Tảo Dương) nguyên quê nội của cha bà và người làng Vác nơi trú quán và là quê ngoại của Cha, lên dỡ dinh cơ của bà chuyển gỗ về quê. Làng Vác lên trước chọn dỡ căn nhà nhỏ. Làng Gạo lên sau phải dỡ ngôi nhà to hơn. Khi gỗ mang về hai làng hết, bà chúa mới bảo số gỗ ấy bà cung tiến để 2 làng làm đình. Làng Gạo nhờ số gỗ nhà to nên làm đình lớn. Làng Vác có số gỗ của nhà nhỏ nên đình bé hơn, thay vì đất thợ nên đình tuy bé nhưng kiểu cách lại thanh và đẹp.

Du khách tới Vác sẽ nhận ra nét thân quen như bao làng Việt ở châu thổ sông Hồng. Đình ngoảnh hướng Tây trông ra đường 21B, đó là ngôi Đình ra đời thời Lê - Mạc với lối kiến trúc hoành tráng, khoẻ khoắn và bay bổng. Cái khoẻ thể hiện ở độ thấp của bộ cột kèo đỡ mái, kẻ tiền kéo dài ra, sự to ngang mở rộng của lòng nhà tiền tế. Ấy nhưng lại rất thoáng mát và bay là kiểu kiến trúc của ống muống và nhà hậu cung, từ đấy bất ngờ nhô lên một toà chồng diêm tám mải, các góc đao cong mũi rồng tựa như một bông hoa trên toà đài vậy.

Tên thường gọi là đình Canh Hoạch còn có tên gọi là đình Vác thuộc xã Dân Hoà, huyện Thanh Oai.

Đi từ Hà Đông qua Ba La Bông Đỏ rẽ đường 21B qua Bình Đà, Thị trấn Kin Bài, huyện Thanh Oai đến ngã tư Vác là đến làng Canh Hoạch. C xưa làng Canh Hoạch có ba ngôi đình: đình Cả, Đình diệc và đình Trung, thờ ba vị thành hoàng. Trải qua thời gian và mưa nắng bão lũ đã làm mai một hai đình nay chỉ còn đình Trung, dân làng dồn các đồ thờ về thờ ở đây. Theo cuốn thần phả còn bảo tồn được di tích thì lai lịch ba vị thành hoàng thờ ở đình như sau:

Vị thứ nhất: Tên Hùng Lý là hoàng tử con của bà cung phi thứ 6 của vua Hoàng Đoan Vương. Ông làm Quan trấn phủ Tam Giang. Nước Văn Lang có giặc nổi lên, Hùng Lý xin vua cha dẹp giặc.

Vị thứ 2 là: Cao Hàn đại vương, trong thời kỳ này, Hùng Lý cùng với Cao Hàn hợp lực đánh giặc. Hai ông qua trang Cổ Hoạch (nay là Canh Hoạch) dừng chân làm nơi trú quân, được nhân dân tôn kính. Khi dẹp giặc song hai ông về thăm nhân dân ở đây. Lý Hùng mất ngày 12 tháng 12năm Kỷ Dậu, Cao Hàn mất ngày 20  tháng 7 năm Mẫu Ngọ. Nhân dân Cổ Hoạch xin huệ hiệu và rước về đền thờ.

Vị thứ ba là: Trần Quốc Uý con của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Úy học giỏi trúng tuyển nhiều khoa thi, được phong là quan trị mưu sự giữ việc binh. Khi giặc nguyên sang sâm lược nước Đại Việt, ông được triều đình cử đi biên ải dẹp giặc, ông có qua Canh Hoạch. Nhiều trận ở Vân Trà, Sơn Nam, Na Sầm, Trà Hưng, An Sinh, Vạn Kiếp, nghĩa quân của ông góp phần vào chiến thắng quân Nguyên. Sau thắng lợi ông có về Canh Hoạch ban phát tiền bạc để làm đình, đào giếng ở xóm Lẻ.v.v và nhận làm đất thang mộc của ông, ngày mồng 8 tháng 10 ông mất tại Vạn Kiếp, nhân dân tôn kính lập thành hoàng thờ ở đình làng.

Trước khi ngài lên đường về kinh, ngài truyền rằng đình cũ thờ ông Trình Lý, đình Riệc thờ ông Cao Hàn, đình Đụn (đình Trung) không thấy ngài nhắc đến, dân ta hiểu ý ngài, năm 1300 ngài mất ở vạn Kiếp, nhân dân ta xin duệ hiệu về thờ ngài ở đình Đụn (đình Trung).

Ông Trình Lý con vua Hùng Duệ Vương được suy tôn là đức thánh Cả.

Ông Trần Quốc Úy dòng dõi hoàng tộc được suy tôn là đức thanh Hai.

Ông Cao Hàn quan phụ chủ tỉnh tuyên Quang được suy tôn là đức thánh Ba.

Năm 1600, bà Nguyễn Thị Ngọc Cẩn con gái trạng nguyên Nguyễn Thiến lấy Trịnh Kiểm, trong phủ chúa gọi là Huệ Lan nữ chúa, người Canh Hoạch kiêng gọi tên húy gọi bà là bà chúa Thuận, bà cho làng Canh Hoạch ngôi nhà ngang để làm đình, lúc này làng rước ông Trình Lý ở đình cũ, rước ông Cao hàn ở đình Riệc về phối thờ ở đình Trung, đình Canh Hoạch là công trình kiến chúc được xây dựng vào triều Lê khoảng năm 1600

Phía trước là cột trụ đèn lồng. Ngôi đình có ba toà: Hạ (Đại bái), Trung cung và Hậu cung, hai bên nhà Tả vu, Hữu vu, các bộ vì kèo làm kiểu thượng rường hạ bẩy, những hàng cột to lớn tạo nên ngôi đình đồ sộ nguy nga hiếm có trong vùng.

Trong đình còn bảo tồn nhiều di vật quý: 1 cuốn thần phả, 9 đạo sắ phong, 2 quán tẩy, 2 chiếc hương án thời Nguyễn trạm khắc rồng phượng hoa lá, 4 cuốn chiếu thư riềng trạm kênh long hoa văn tứ quý, trong cuốn thư là bài thơ ngũ ngôn bát cú ca ngợi công đức vị thánh hiền.

Năm 1991, đình Trung được xếp hạng di tích cấp quốc gia.

Năm 1995, nhà thờ họ Nguyễn Đức Canh Hoạch được xếp hạng di tích cấp quốc gia.

Năm 2014, nhà thờ thường quốc công được xếp hạng di tích cấp thành phố,

Năm 2017, chùa Diên Phúc được xếp hạng di tích cấp thành phố.

Năm 2017, đình cũ (miếu đình cũ) được xếp hạng di tích cấp thành phố.

Hiện nay đình Trung làng Canh Hoạch còn lưu giữ 9 đạo sắc phong, ngài Trình Lý đức thánh Cả là người hết lòng yêu nước, thương dân, ngài sinh ngày 7 tháng giêng âm lịch, nhân dân làng Canh Hoạch lấy ngày sinh của ngài làm ngày khao thọ các cụ tuổi 100, 90, 80, 70, ngày lên lão của các ông các bà tuổi 50 và ngày vào làng cho trẻ. Hàng năm nhân dân làng Canh Hoạt tổ chức lễ hội trong 3 ngày 11, 12, 13 tháng 3 âm lịch, nhằm tưởng nhớ công ơn 3 vị thành hoàng làng, lấy ngày 12/3 âm lịch, ngày sinh của Ngài trần Quốc Úy là ngày chính hội.

  1. NHÀ THỜ HỌ NGUYỄN (TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN ĐỨC LƯỢNG)

Nhà thờ tiến sĩ trạng nguyên họ Nguyễn - một dòng họ lớn, đa định của làng. Nhà thờ kiến trúc chữ nhị, không to tát mà khiêm tốn nm trên một gò đất cao trông ra ao rộng. Duy chỉ có một cột đồng trụ búp hoa tựa hai ngọn bút vươn cao lên trời như ký hiệu báo cho khách xa gần biết đó là nơi thờ.

Hậu cung nhà thờ họ Nguyễn có bức đại tự: “Trạng nguyên từ”, thế là rõ: Đền thờ trạng nguyên. Lật xem từng trang gia phả đối chiếu sử sách đời trước mới hay ở làng Canh Hoạch, dòng họ Nguyễn nay đã một thi chói lọi biên đá, bảng vàng, kế tiếp ba đời đỗ Đại khoa trong đó có một người đỗ trạng nguyên, trường hợp ấy có lẽ chỉ có một ở làng Canh Hoạch.

Người khai đại khoa cho dòng họ Nguyễn Canh Hoạch là ông Nguyễn Bá Ký. Cuốn sách mới nhất các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 – 1919 (2) đoạn viết Phạm Bá Ký người xã Canh Hoạch huyện Thanh Oai ... cha của Phạm Quý Lượng, ông nội của Phạm Khuông Lễ”. Bản dịch văn bia lưu ở Quốc Tử Giám khắc tên những người đỗ tiến sĩ khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận năm thứ tư (1463) cũng ghi là Phạm Bá Ký. Thế nhưng các đời sau Phạm Bá Ký như trạng nguyên Đức Lượng, tiến sỹ Khuông Lễ là con và cháu ông, các văn bia, sách Đại Việt sử ký toàn thư, Đăng khoa lục và một số tài liệu của soạn giả và phả tộc đều ghi là họ Nguyễn. Như vậy vấn đề ra: tại sao ông Nguyễn Bá Ký đi thi lại đổi sang họ phạm hay tại sao tổ tiên họ Nguyễn ở Canh Hoạch từ sau ông Phạm Bá Ký đang là họ Phạm lại đổi sang họ Nguyễn. Quả là vấn đề rất lý thu xin dẫn ra coi như một tồn nghi đợi đủ tư liệu mới biện minh. Còn theo các cụ ở dòng họ Nguyễn Canh Hoạch thì dòng họ này có quan hệ thân tộc với dòng họ Nguyễn Trãi ở Nhị Khê từ cái thời Nguyễn Phi Khanh cha Nguyễn Trãi vốn ở làng Chi Ngãi (Chí Linh- Hải Dương) rời sang Nhị Khê lấy đó là bản quản. Lúc bấy giờ có một người em cùng đi, lập quê ở Canh Hoạch. Các cụ khẩu chuyển câu “Anh ở Ngọc i (tên cũ là làng Nghị Khê) em về Cổ Hạc ( tên cũ làng Canh Hoạch). Gặp thi nhiều nhũng sự kiện Lê Chi Viên (4-8-1442) đã dẫn đến cái án bất công nhất trong lịch sử là đại công thần Nguyễn Trãi bị chudi tam tộc, vì có liên quan đến dòng họ Nguyễn ở Canh Hoạch phải đối họ để đi thi. Đợi tới khi “bể yên gió lặng” Nguyễn Trãi được vua Lê Thánh Tông minh oan, con cháu dòng họ Nguyễn ở Canh Hoạch mới cải đổi về họ cũ.

Phạm Bá Ký tức Nguyễn Bá Ký đỗ để tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Quý Mùi nên hiệu Quang Thuận 4 (1463) đời Lê Thánh Tông. Ông làm quan to trong triều thăng thưởng đến chức Binh bộ thượng thư.

Nguyễn Đức Lượng, sách Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075 – 1919), chú rõ ông là: Người xã Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, con của Nguyễn Bá Ký cha Nguyễn Khuông Lễ. Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (Trạng Nguyễn) khoa Giáp Tuất niên đỗ năm 50 tuổi. Lúc đầu tên là Hêđược vua phong bộ Tả thị lang. Sau khi mất được tặng thượng thư “Sách các Trang nguyên nước ta thêm chi tiết trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng được đi sứ phương bắc, khi mất thăng thượng thư”.

Nguyễn Khuông Lễ con của Nguyễn Đức Lượng, cháu Nguyễn Bá Kỳ, đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi niên hiệu Đại Chính 6 (1535) đời Mạc Đăng Doanh, được cử đi sử, làm quan đến chức Hữu thị lang, tước bá.

Vài nét sơ lược tiểu sử các vị đại khoa của dòng họ Nguyễn thấy dõ sau khi đỗ các vị đều được bổ nhiệm làm quan về cuối đơi đều được thăng thưởng chức tước to trong triều. Đáng lưu ý là hai cha con Nguyễn Đức Lượng và Nguyễn Khuông Lễ được tiến cử đi sứ chứng tỏ dòng họ Nguyễn ở Canh Hoạch tổ tiên có khiếu ngoi giao. Tưởng nhớ những người hiền tài trong họ, hàng năm họ Nguyễn tổ chức việc họ lớn vào ngày 15 tháng 2.

Trong nhà thờ Trạng nguyên có đôi câu đối rất hay:

Phiên âm:

Cựu trạng nguyên, sanh trạng nguyên nhất giáp khoa danh quang sử bút

Phụ tiến sĩ, tử tiến sĩ bát truyền chung đnh dụ Gia khương.

Dịch nghĩa:

Cậu trạng nguyên, cháu trạng nguyên, khoa danh đỗ đậu sáng danh sử sách

Cha tiến sĩ, con tiến sĩ, tám đời quyền quý phúc đầy nhà.

Từ xưa đến nay dân làng Canh Hoạch vẫn còn truyền đời câu chuyện ly kỳ về trạng cậu trạng cháu

Kể rằng: Ông Nguyễn Đức Lượng có người em gái Nguyễn Thị Hiền giỏi giang xinh xắn, dáng vẻ con nhà thi thư, quyền quý. Lúc chưa thành đạt ông có mời một thầy địa lý Tàu tìm cho ngôi đất để mộ tổ phụ. Ông thầy địa lý tìm được kiểu đất rất đẹp.

Nhưng bảo 3 năm sau mới đặt mộ. Sắp tới ngày đặt mộ thì ở làng Tảo Dương có công tử Nguyễn Doãn Tạo con ông Nguyễn Doãn Địch đỗ hoa khoa Tân Sửa niên hiệu Hồng Đức 12 (1481) đời Lê Thánh Tông mắc bệnh phong bỏ làng ra làm lều ở kiểu đất trên con Hoả Tinh mà ông thầy địa lý đã chọn cho gia đình ông Lượng đặt mộ.

Thấy vậy gia đình ông Lượng tìm mọi lý lẽ thuyết phục công tử Toại chuyển chỗ ở, cậu ta vẫn không nghe. Cho tới ngày thầy địa lý sang định ngày đặt mộ, công tử Toại vẫn không thuận theo ý gia đình ông lượng buộc lòng ông Lượng phải thú thực công việc đại sự của nhà để công tử thông cảm. Nghe xong, công tử Toại xin ông Lương cho cô em gái xinh đẹp tên là Hiền ra trò chuyện với chàng một đêm thì hôm sau chàng sẽ chuyển chỗ.

Về nhà ông Lượng than thở với thầy địa lý, ai dè cô em gái biết chuyện xin anh tự nguyện ra với công tử.

Đêm đó hai người đang ân ái mặn nồng thì công tử Toại đột t trên bụng. Cô Hiền vội vàng về cấp báo gia đình. Nghe tin dữ, ông Lượng cho người xuống báo tin không may để gia đình ông thám hoa Nguyễn Doãn Địch biết cùng nhau lo liệu an táng cho công tử Toại ở chỗ khác và cùng dự kiến sáng hôm sau mang mộ bố đặt vào kiểu đất đó.

Sáng hôm sau hai gia đình ra thì thi thể ông Toại đã được mối bồi đất thành đống. Ông lượng chỉ còn kêu trời cho nhà mình hết phúc, đàng tăng mả bố vào bên mộ công tử Toại, gọi là huyết bàng.

Em gái ông có thai, ông Lượng buồn phiền lo liệu cho em căn nhà nhỏ ở ria làng. Về sau cô Hiền sinh con trai đặt tên là Nguyễn Thiến. Thiến rất thông minh học đâu nhớ đấy, kịp 6 tuổi đã dục mẹ cho lên theo học ông cậu là Nguyễn Đức Lượng.

Nguyễn Đức Lượng thì đỗ trạng nguyên nhậm chức ra làm quan. Nguyễn Thiến ở nhà đèn sách theo nghiệp cậu mở lớp dậy học. Bây giờ triều đình chia bè kéo đảng lộn xộn, đợi khi triều Mạc thịnh bình đến năm 1532 đời Mạc Đăng Doanh, Nguyễn Thiến mới đèn sách đi thi. Khoa ấy ông đỗ trạng nguyên.

Truyền thuyết trên vốn lưu truyền lâu đời ở làng. Một số sách thời đó có ghi như Đại Nam long thủ lục (hiện còn bản lưu ở dòng họ chép các Truyện ly kỳ về trng nguyên ở nước ta), sách lịch đại danh hiền phổ và Đăng khoa lục sưu giảng của tiến sĩ Trần Tiến, đỗ năm 1748 làm thượng thư triều Lê Cảnh Hưng. Phải nói câu chuyện như trên các chi tiết khó tin là thật, song các nhà soạn giả đều chung nhận định câu chuyện đã thể hiện được tấm lòng nhưỡng mộ của dân chúng về hai vị trang nguyên có quan hệ thân tộc: trạng cậu, trạng cháu, lại cùng một nơi nuôi dưỡng phát triển tài năng là làng Canh Hoạch.

  1. 3. CHÙA CANH HOẠCH

Chùa Canh Hoạch (Diên Phúc Tự) là công trình kiến trúc tôn giáo thờ Phật theo truyền thống của người Việt, căn cứ cách phân loại hiện nay được quy định theo điều 28 Luật Di sản văn hóa thì chùa Canh Hoạch thuộc loại hình di tích Kiến trúc Nghệ thuật.

Dân Hòa là vùng đất cổ có bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa lâu đời với các thôn: Vũ Lăng; Tiên Lữ, Phú Thọ, An Khoái, Canh Hoạch. Ngay từ rất sớm vùng đất này là được các lớp cư dân Việt cổ khai phá thành những vùng đồng bằng trù phú. Dấu còn lại đến ngày nay còn lại trong các thôn như: Giếngđồng (thôn Vũ Lăng), giếng làng (thôn Phú Thọ) cùng các dấu chân ngựa Thánh Gióng qua làng Tiên Lữ trên đường truy đuổi giặc Ân....

Các thôn của xã Dân Hòa, thôn nào cũng có đình thờ Thành Hoàng, chùa thờ Phật, miếu, Nghè thờ thần bn thổ và rất nhiều các nhà thờ danh nhân, nhà thờ họ của các dòng họ lớn, đã có công khai hoang, lập làng, mở ra nền khoa bảng nước nhà, tiêu biểu như: Nguyễn Bá Ký đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ năm Quý mùi (1463), năm 1459 được phong Văn Phái Hầu, năm 1557 được phong Thạch Quận Công, năm 1584, Ông lại được phong Thường Quốc Công, đến năm 1585, được phong Thái Bảo, Nguyễn Đức Lượng (trạng cậu) đỗ trạng nguyên năm Hồng Thuận thứ 6(1514), Nguyễn Thiến (trạng cháu) đỗ trạng nguyên năm Nhâm Thìn (532), Nguyễn Khuông Lễ đỗ tiến sĩ năm 1535, Nguyễn Quyện một võ tướng trấn thủ Thăng Long thời Mạc, được phong Văn Thái Hầu Thường quốc công, Đào Quang Nhiêu (1601 – 1672) được giữ chức trấn thủ Nghệ An, kiên châu Bố Cảnh và làm tổng trấn Cát sử Sơn Nam, Cam Tuyền....

Cũng như các ngôi chùa khác, Chùa Canh Hoạch được dựng lên nhằm đáp ứng nhu cầu thờ Phật của người dân quanh vùng. Do có nội dung giáo lý phù hợp với tâm lý người Việt, nghi thức hành lễ giản dị, nên đạo Phật đã phát triển mạnh ở nước ta và có lúc trở thành Quốc giáo của nhà nước Phong kiến Đại Việt thời Lý – Trần.

Sang thời Lê sơ mặc dù nhà nước phong kiến đã lấy Nho giáo để làm hệ tư tưởng chính thống để cai trị đất nước, song Phật giáo vẫn có một vị trí đáng kể trong xã hội, được mọi giới thừa nhận. Ngay cả như Vua Lê Thánh Tông một người sùng đạo Nho nhưng vẫn đi thăm viếng các Chùa, cho dựng lầu “ Vọng Tiên” và thừa nhận: “đạo của Thánh Hiền(Nho giáo) đều thiết dụng hàng ngày, mà lòng ham thích của người ta lại chẳng bằng Phật, lão”.

Từ thế kỷ 17 trở đi, kỷ cương Nho giáo suy đồi, người ta lại tìm đến Phật giáo, hiện tượng cúng Hậu, cúng ruộng để xây dựng chùa chiền trở thành hiện tượng phổ biến, nhiều ngôi Chùa do quan lại, quý tộc đứng ra xây dựng. Qua nhiều thăng trầm, biến động của lịch sử dân tộc nhưng ngôi chùa làng vẫn là biểu tượng thân thuộc của mỗi làng quê Việt Nam. Ngôi Chùa vừa là dấu vết của kiến trúcPhật giáo vừa là nơi gửi gắm niềm tin và ước vọng của nhân dân cầu mong một cuộc sống no đủ, bình an, đồng thời là nơi giáo dục con người lòng từ bi, bác ái.

Tương truyền, Chùa Canh Hoạch (Diên Phúc Tự) được ra đời từ khá sớm. Tuy nhiên, qua các đợt khảo sát thì hiện nay chưa tìm thấy tư liệu nào ghi chép chính xác về niên đại khởi dựng của di tích. Để xác định được niên đại tương đối cho di tích, chúng tôi tạm căn cứ vào các di vật Hán nôm hiện còn trong di tích, đó là quả chuông đúc năm Tự Đức 27(1874) cùng hệ thống tượng tròn, hoành phi, câu đối ... có thể đoán định niên đại ra đời của ngôi chùa ít nhất vào khoảng thời Nguyễn.

Tồn tại đến nay, ngôi chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa đặc biệt là vào thời Nguyễn. Quy mô kiến trúc hiện nay là kết quả của lần trùng tu năm 2004. Chùa Canh Hoạch(Diên Phúc tự) được tọa lạc trong một khu đất cao ráo, rộng, thoáng trong khu vực cư trú của làng. Chùa quay hướng Tây trong khuôn viên có nhiều loại cây lưu niên rợp mát tạo sự yên tĩnh nơi cửa thiền. Các hạng mục hiện nay của di tích bao gồm: Tam Quan ngoại, nhà bát giác, tam quan nội, sân, kiến trúc chính dạng chữ Đinh gồm tiền đường, thượng điện cùng khu nhà tổ, nhà mẫu, nhà vong, nhà khách, nhà ni và các công trình phụ trợ.

  1. NHÀ THỜ THƯỜNG QUỐC CÔNG NGUYỄN QUYỆN.

Nhà thờ Thường quốc công Nguyễn Quyện là nơi thờ phụng và tưởng niệm Thường Quốc Công Nguyễn Quyện – một danh tướng thời nhà Mạc. Nhà thờ được khởi dựng vào thời Lê và đã được trùng tu sửa chữa vào các năm: Tự Đức thứ 30 (1877), Năm 1979 và Ất Dậu năm 2005. Và nằm trên địa phận Làng Canh Hoạch, xã Dân Hòa, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội (xưa là Trang Cổ Hoạch thuộc Tổng Tuyền Cam, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên).

Nguyễn Quyện một danh tướng lẫy lừng thời Mạc, sinh năm Ất Dậu 1525, mất năm Quý Tỵ 1593, cha của Nguyễn Quyện là Nguyễn Thiến.

Tổ tiên của Nguyễn Thiến quê gốc ở Thôn Tảo Dương, xã Hồng dương, huyện Thai Oai, tỉnh Hà Đông cũ. Cha của Nguyễn Thiến là Nguyễn Doãn Toại ông mất năm 1494, đến năm 1495 Nguyễn Thiến ra đời tại làng Canh Hoạch, xãDân Hòa, huyện Thanh Oai. Lớn lên theo học cậu ruột là Nguyễn Đức Lượng, từ đó học thành đạt.

Nguyễn Thiến thi đỗ trạng nguyên khoa thi Nhâm Thìn, niên hiệu Đại Chính 3 (1532) nhà Mạc. Ông làm quan nhà Mạc đến chức Lại Bộ Thượng Thư ngự sử đài đô Ngự sử, Đông các Đại học sỹ nhập thị kinh diên, tước Thư Quận công. Sau đó ông bất mãn với nhà Mạc vì lý do Mạc Phúc Nguyên nghe lời dèm pha của bọn nịnh thần, vu khống cha con Thái Tể Lê Bá Ly cùng thông gia Nguyễn Thiến có âm mưu làm phản. Vì vậy Nguyễn Thiến đã cùng với Thái Tể Phụng quốc công Lê Bá Ly dẫn hơn 13 nghìn quân vào Thanh Hóa quy thuận triều Lê Trung Hưng, được triều Lê Trung Hưng ban thưởng cho giữ nguyên các chức tước, Nguyễn Thiến đã phục vụ nhà Lê trong khoảng 8 năm, đến năm Thiên Hựu đời Lê Anh Tông (1557) thì mất, thọ 63 tuổi.

Mẹ của Nguyễn Quyện là Lê Thị Mĩ mất ngày 10/02 âm lịch.

Nguyễn Quyện lúc trẻ theo học trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm – một người bạn thường xướng họa thơ văn với cha và đỗ trạng sau cha một khoa. Sau Nguyễn Quyện theo đường võ nghiệp là một danh tướng của thời Mạc. Do cha bất mãn với nhà mạc, đã bỏ Mạc về với Lê, Nguyễn Quyện giữ trọn chữ Hiếu với cha nên đã theo cha quy thuận nhà Lê. Nhưng sau khi cha chết, Nguyễn Quyện cùng với em trai là Nguyễn Miễn đã bỏ Lê, trở lại với nhà Mạc theo lời thầy dạy Nguyễn Binh Khiêm mời về.

Theo truyền lại, do biết Quyện hết lòng kính phục thầy dạy là Trạng trình nên vua Mạc Phúc Nguyên đã cho sức sang hỏi kế Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Binh Khiêm đã gửi cho Nguyễn Quyện một bức thư:

“Đạo ở mình ta có khó gì

 Phương chi, chí khi đã tương kỳ

Nghìn năm quân, phụ cương thường đó

Trung hiếu một lòng chớ đổi đi”

Sau những năm ở với triều Lê – Trịnh (1551 – 1557), năm 1557, Nguyễn Quyện đã trở về với nhà Mạc. Nguyễn Quyện đã cầm quân đánh một số trận lớn thắng giòn giã làm thanh thế quân Mạc cường mạnh hẳn.

Tháng 8 năm Đinh Tỵ (1557), Thái sư Trịnh Kiểm mang 50 ngàn quân tiến đánh xứ Sơn Nam với quân Mạc. Nguyễn Quyện tả xung hữu đột đánh trả quyết liệt, giết nhiều tướng và thu được hàng trăm chiếc thuyền củng khí giới, khiến quân Lê – Trịnh phải bỏ chạy thoát thân về Thanh Hóa, Thắng trận này, Nguyễn Quyện được Mạc phúc Nguyên phong tước Thạch Quận Công.

Tháng 6 năm Giáp Tuất (1574) Nguyễn Quyện đem quân đánh Nghệ An, bắt được tướng trấn thủ nhà Lê ở đây Hoằng Quận Công.

Tháng 6 năm Ất Hợi (1575) ở Nghệ An, Quyện đặt phục binh thắng luôn mấy trận, bắt được Phan Công Tích giải về kinh sư chém đầu.

Tháng 7 năm Bính Tý (1576), Nguyễn Quyện đánh nhau với Trịnh Mô, bắt được Mô giải về kinh sư. Từ đó uy danh của Quyện càng thêm lừng lẫy.

Đề cao công lao lẫy lừng của danh tướng Nguyễn Quyện với vương triều Mạc, dân gian đã có câu ca: “ Quyện tồn, Mạc tại, Quyện bại, Mạc vong”.

Với những đóng góp của Nguyễn Quyện cho nhà Mạc nên năm Giáp Thân – 1584, Quyện được phong Thường Quốc Công. Năm sau, lại được phong làm Thái Bảo. Ngoài ra, Nguyễn Quyện còn được giữ chức Đông quân Đô Đốc, Nam đạo tướng quân, Bình Chương quân trọng quốc kiêm trưởng phụ sự.

Nguyễn Quyện có 02 bà vợ. Bà vợ thứ nhất là Ngô Ngọc Lan – con gái Trạng Nguyên Ngô Miễn Thiệu quê ở Tam Sơn, Đông Ngàn, Bắc Ninh. Bà vợ thứ hai là con gái Thái Tể Phụng Quốc Công Lê Bá Ly là Lê Thị Phúc.

Nguyễn Quyện có 04 con trai và 02 con gái. Các con trai của Ông đều được phong tước: Thọ Nham Hầu Nguyễn Trù, Bảo Trung Hầu Nguyễn Đảo, Nhuệ Quân Công Nguyễn Tín và Nghĩa Trạch Hầu Nguyễn Dũng vì những công lao đóng góp cho nhà Mạc. Con gái lớn Nguyễn Thị Nguyệt được gả cho vua Mạc Mậu Hợp, còn Nguyễn Thị Niên lấy Mĩ Quận Công Bùi Văn Khuê.

Nguyễn Quyện không chỉ đánh giặc giỏi mà còn có nhiều đóng góp cho quên hương Thanh Oai. Những gia nhân người vùng Thanh – Nghệ theo ông về Mạc, ông đưa họ về quê cha đất tổ là vùng Gạo – Vạc, lập thành một ấp mới gọi là Đoàn Tràng Phường, nay là thôn Ngọc Đình, xã Hồng Dương, Thanh Oai. Nguyễn Quyện còn mang một bộ phận quân về xây dựng căn cứ quân sự lớn và mở mang thương nghiệp ở vùng trang Cổ Hoạch (từ ngã tư Vác đến hết làng Tảo Dương) Đại bản Doanh là khu nhà Đình sắc hiện nay của làng Canh Hoạch. Qua con mắt của người dân đánh giá, Cổ Hoạch được coi là một trong 3 nơi có vị trí quân sự quan trọng và là nơi dân cư sầm uất, kinh tế phát triển ở vùng ngoại ô kinh thành Thăng Long qua thứ nhất Cổ Bi, thứ nhì Cổ Loa, thứ Ba Cổ Hoạch”.

Chiến công của Nguyễn Quyện lẫy lừng đất Mạc, được vua Mạc phong Thường Quốc Công rồi Thái Bảo. Nhưng vai trò cá nhân Nguyễn Quyện không thể cưỡng lại được xu thế tất yếu của lịch sử, khi nhà Mạc tuy có nhiều yếu tố tiến bộ nhưng mất lòng dân, nên không quy tụ được nhân tâm để làm sức mạnh bảo vệ triều chính. Nhà Mạc lung lay, Năm Nhâm Thìn (1592) Nguyễn Quyện bị thua trận ở Cầu Dền (khu vực chợ Hôm ngày nay) và bị bắt. Đích thân Tiết Chế Trịnh Tùng cở trói cho Quyện, đãi theo lễ tân khách, tuyên dụ. Nguyễn Quyện giữ khí tiết, than rằng “Tướng thua trận không thể nói mạnh được. Trời đã bỏ Mạc thì người anh hùng cũng khó thi sức”, Trịnh Tùng cả khen câu nói ấy.

Ngày 04 tháng 11 năm Quý Tị (1593) Nguyễn Quyện qua đời trong ngục, liền theo đó là những cái chết của Nhuệ Qun Công Nguyễn Tín, Thọ Nham Hầu Nguyễn Trù và các con cháu khác của Thường Quốc Công. Nhiều người trong họ phải bỏ trốn khỏi quê, thay tên đổi họ...

Khi cha con, anh em, bác cháu Nguyễn Quyện qua đời, Trịnh Kiểm là con rể của Nguyễn Thiến định đưa về chôn cất ở quê hương và làm lễ tang nhưng không được vua Lê ưng thuận, đành chịu.

Sau này khi nhà Nguyễn lên thay thế nhà Lê, thời gian càng lùi xa, các sự kiện lịch sử càng được phán xét công bằng hơn, nên Nguyễn Quyện được triềuNguyễn đánh giá là vị tướng tài của đất nước. Vì vậy Ông được dân làng Vạc lập đền thờ Phụng.

  1. ĐÌNH CŨ (MIẾU ĐỒNG CŨ).

Trong quá trình cư tụ và tạo lập xóm làng, các thiết chế được lập lên nhằm đáp ứng nhu cầu của dân địa phương. Theo cuốn thần phả hiện lưu tại Đình Canh Hoạch thì Đình Cũ (miếu Đình Cũ) được xây dựng từ rất lâu đời. Tuy nhiên trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, ngôi miếu đã bị hư hỏng, đổ nát. Năm 1994, thể theo nguyện vọng của nhân dân địa phương, ngôi đình lại được phục dựng lại trên nền đất cũ với quy mô như hiện nay. Từ đó đến nay, di tích thường xuyên được sửa chữa, bổ sung đồ thờ. Lần tu sửa gần đây nhất là vào năm 2003.

Đình Cũ thờ phụng 02 vị Thần hoàng là: Trình Lý Đại vương, Cao Hàn Đại Vương (hai vị này được thờ chính tại Đình Canh Hoạch). Sự tích về các vị Thần hoàng làng ở Đình Cũ có thể tóm lược như sau:

Theo thần tích làng Canh Hoạch soạn năm Chính Hỏa thứ 3 (1682) do Quản giám bách thần tri diện Nguyễn Hiền soạn thì đây là hai nhân vật sống dưới thời Hùng Duệ Vương. Khi giặc Thục xâm lược bờ cõi, vua Hùng đã sai Tản Viên Sơn cùng Trình Lý (vốn dòng dõi nhà Hùng) và Cao Hàn là phụ đạo Tuyên Quang mang quân đi đánh quân Thục.

Ngày mùng 02 tháng 7 năm Mậu Thân, hai Ông hành quân qua trang Cổ Hoạch (thôn Canh Hoạch ngày nay) thì trời tối, nhân dân trong trang ấp thành kinh đón tiếp hai ông và nghĩa quân. Hai Ông đã xây dựng đồn binh ở đây khoảng 1 tháng và nhân dân Trang Cổ Hoạch làm thần tử. Sau khi thắng trận, hai ông trở về thăm nhân dân. Ngày 12 tháng 12, Ông Trình Lý không bệnh mà mất. Nhân dân chôn cất Ông ở đất Ngô Công (đất đó như hình con rết). Ít lâu sau Cao Hàn cũng mất tại Ái Châu. Nghe tin, nhà vua vô cùng thương tiếc đã phong hai Ông làm Phúc thần tại trang Cổ Hoạch.

Từ những dòng ghi chép ở trên cho thấy, việc thờ phụng hai vị Đại Vương tại Đình Cũ (miếu Đồng Cũ) khởi nguồn từ rất sớm ở vùng đất trang Cổ Hoạch (nay là Canh Hoạch). Sau này, khi kiến trúc Đình làng phát triển, các Ngài đã trở thành Thành Hoàng của làng Canh Hoạch như một sự khẳng định tất yếu của cộng đồng dân cư làng xã đối với những đóng góp của các vị Thành hoàng, với mong muốn thần tiếp tục phù trì cho cuộc sống thường nhật của nhân dân được bình an, vô s, xã tắc vững bền.

Để tưởng nhớ đến công lao, ân đức của hai vị Thành hoàng làng. Hàng năm, làng Canh Hoạch mở hội trong 3 ngày từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 3 (âm lịch). Lễ vật dâng cúng Thành hoàng là lợn trắng, lợn đen, thịt trâu, xôi, hương đăng, quả phẩm, trà rượu để dâng cúng Thành hoàng làng.

Trong những ngày lễ thì những người dự lễ phải trai giới, tắm giặt sạch sẽ, người viết văn tế là người cao tuổi. Trong Ban tế gồm 17 người, chủ tế mặc áo thụng màu đỏ giữ ngôi vị cao nhất, những người vào tế phải đội mũ, mặc áo màu xanh lam, lúc đọc văn tế phải kiêng tên húy Ngài. Trong khi tế nếu có ai phạm lỗi phải phạt trầu ra tạ thần.

Đình Cũ (miếu Đồng cũ) tọa lạc trên một khu đất cao ráo theo hướng đông nam trong khuôn viên rộng rãi, thoáng đãng với nhiều cây xanh và cây ăn quả rợp mát. Phía trước Đình (Miếu) là con đường nhỏ, xung quanh là cánh đồng của thôn Tiên Văn. Tổng thể là các công trình kiến trúc hiện nay bao gồm kiến trúc chính kết cấu kiểu chữ Đinh gồm đại bái và hậu cung, phía bên trái đình là khu nhà khách. Trước đình là một miếu nhỏ, tương truyền đây là mộ của Ông Trình Lý.

II. ĐÌNH – ĐỀN – CHÙA PHÚ THỌ.

          Đình – Đền – Chùa Phú Thọ hiện thuộc thôn Phú Thọ - xã Dân Hòa – huyện Thanh Oai – Thành phố Hà Nội. Phú Thọ là một làng Việt cổ thuộc xã Dân Hòa, xa xưa có tên là Tuyền Cam thuộc tổng Tuyền Cam, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam Thượng. Sau đó đến thời nhà Nguyễn, Tuyền Cam được đổi tên là Thủy Cam có nghĩa là nước ngọt. Truyền rằng, làng Thủy Cam đứng đầu tổng Thủy thuộc huyện Thanh Uy, tỉnh Hà Đông. Đến năm Duy Tân nhị niên ( 1908) làng được đổi tên thành làng Phú thọ. Năm 1947, 1948 Phú Thọ hợp nhất với các xã, thôn khác thành xã Dân Hòa cho đến ngày nay.

          Năm 1965 sát nhập hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây thành tỉnh Hà Tây. Năm 1976 sát nhập hai tỉnh Hà Tây và Hòa Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình. Năm 1991 tách hai tỉnh Hà Tây và Hòa Bình như trước xã Dân Hòa vẫn thuộc huyện Thanh Oai.

1. DI TÍCH ĐÌNH VÀ ĐỀN PHÚ THỌ :

Căn cứ vào các tư liệu Hán Nôm lưu trữ tại di tích và truyền thuyết lưu truyền trong dân thôn thì Đình – Đền Phú Thọ thờ lục vị thành hoàng làng là những thiên thần có công giúp dân giúp nước. Sự tích về các vị thần có thể tóm tắt như sau:

          Đời xưa, trời Nam mở nước đã phân ranh giới rõ ràng, lấy Dực Trẩn làm núi sông, lấy Đẩu Ngưu làm đồng ruộng từ triều Hùng Kinh Dương Vương vua chúa đều là người Việt, cha truyền con nối ở đất Hoan Châu, núi sông đẹp đẽ, đồng ruộng phì nhiêu, lập kinh đô ở Nghĩa Linh, sửa sang đền chùa miếu mạo, dựng nước, an dân, đời này qua đời khác, 18 đời vua cả nước một nhà, bốn phương một dải. Vậy nên có thơ rằng :

          Mở đầu nước Việt tự Kinh Dương

Một mối non sông mười tám vua

Mười tám đời truyền nghìn thu vững

Muôn đời hương lửa hãy còn thơm.

Đến đời nhà Đông Hán, Tô Định đem quân hùng tướng mạnh sang cướp nước ta, trăm họ đau thương, muôn dân cực khổ, không ai cứu giúp, Cháu gái vua Hùng tên húy là Trắc, một bậc hào kiệt trong đời, văn võ kiêm toàn, đủ tài thao lược kêu gọi bốn phương cùng bà đánh giặc. Trước khi ra quân, bà lập một đàn tràng ở cửa sông Hát cáo tế trời đất mong các vị tháng thần âm phù giúp bà đánh giặc.

Bà Khấn rằng : Giời sinh một người cũng như trời đất sinh muôn vật đều phải có gốc rễ tổ tiên từ đời này qua đời khác, cha truyền con nối có vua chúa thánh thần. Có vua chúa phải có triều đình, có triều đình phải có phép tắc. Thương dân yêu nước đức độ bao la, bốn cõi thanh bình muôn dân thịnh vượng.

Nay có tên chó dê Tô Định tư tưởng điên cuồng, tính tình bạo ngược, lấy thịt đè người, cậy mạnh đánh yếu, cướp phá dân ta, giết người lấy của, trời đất căm hờn, lòng người phẫn nộ.

Tôi cháu gái vua Hùng phận sức yếu, nghĩ đến muôn dân, lòng đau như cắt, nước mắt hai hàng, xin cùng trăm vị chư thần dấy quân đánh giặc cứu nước an dân để trăm họ khỏi lầm than đau khổ. Vậy xin lập một đàn khấn các chư vị thánh thần thề cùng tôi âm phù đánh giặc khôi phục nước nhà khỏi phụ lòng mong mỏi của cha Ông, xây dựng non sông đất nước.

Khấn xong bà cho truyền hịch đi cả nước, các châu, đạo, huyện, kêu gọi bốn phương anh hùng hào kiệt, văn võ tướng tài đức độ hơn người, trai gái trẻ già đều đứng lên đánh giặc. Ngày hôm ấy bà truyền binh sĩ cơ nào đội ấy đều nhất loạt ra quân, cờ bay rợp đất, trống đánh vang trời một ngày đêm đã đến huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, đạo Sơn Nam. Gặp quân Tô  Định, bà liền hội đồng binh sĩ khấn thần âm phù giúp giặc, sau thắng trận sẽ phong là Thượng đẳng thần. Khoảng cuối canh ba, bà mơ thấy sáu ông già đầu tóc bạc phơ, mũ áo chỉnh tề tiến đến tự xưng là 6 anh em ruột bậc dòng dõi nhà Hùng, con vua Lạc Long Quân trấn nhự ở đây tên gọi là :

Chúc Sơn chi thần

Thiên Tràng chi thần

Địa Tràng chi thần

Mộc Tràng chi thần

Ba Dạ chi thần

Thổ địa chi thần

Sáu vị thần nói : Giời đất an bài bốn phương đã định, ta cùng nữ quân một dòng một giốn, nay nữ quân đem quân đánh Tô Định, anh em ta một lòng tự nguyện âm phù đánh giặc lập công, ngày mai nữ quân sẽ biết. Nói xong biến mất. Khi bà tỉnh dậy lời thần còn văng vẳng bên tai, ngày ấy là 10/02 âm lịch. Sáng sớm dậy, bà truyền gọi phụ lão dân thôn đến hỏi, cho dân 20 hốt vàng để tu bổ đền, miếu. Sau đó bà làm lễ tạ rồi cất quân đến thẳng đồn Tô Đinh, trong chốc lát, quân Định thua to, bỏ 65 đồn, bà bắt được đại tướng và rất nhiều binh sĩ, quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi nước Nam. Xong bà về kinh đô tự xưng là Trưng Nữ Vương. Nhớ lại công lao của 6 vị thần, bà liền hạ sắc cử một vị đại thần về làm bản sự tích và phong 6 vị thần là Thượng đẳng tối linh.

Đến đời Trần Thái Tôn, quân Nguyên Mông sang cướp nước ta, kinh thành bị vây hãm, vua sai Trần Quốc Tuấn đem quân đi đánh giặc Nguyên. Trần Quốc Tuấn cũng cầu khấn bách thần. Lục vị đại vương lại một lần nữa âm phù bình giặc Mã Nhi, sau được vua Thái Tôn phong là Linh ứng anh triết tá tri phong công đại vương.

Thời kỳ Lê Thái Tổ khởi nghĩa bình được giặc Minh. Sau khi bình định thiên hạ, Lê Thái Tổ bèn gia phong đức Lục vị là Phả tế cương nghị anh linh đại vương và sắc ban cho dân các nơi thờ phụng các ngài sửa sang đình miếu, muôn đời hương lửa.

2. CHÙA PHÚ THỌ :

Chùa Phú Thọ (Linh Quang Tự) nằm ở trung tâm làng Phú Thọ, xã Dân Hòa. Đây là vùng đất cổ chứa đựng trong lòng một kho tư liệu văn hóa dân gian đặc sắc. Dấu ấn văn hóa vật thể biểu hiện qua các di tích lịch sử văn hóa trải khắp trong các làng thuộc xã Dân Hòa mà Đình – Đền – Chùa làng Phú Thọ là những di sản văn hóa tiêu biểu.

 Phật giáo xuất hiện ở Ấn Độ vào thế kỷ VI trước Công Nguyên, được truyền vào Việt Nam ở những năm đầu Công nguyên. Ngay từ đầu Phật Giáo đã hội nhập với những tín ngưỡng bản địa như thờ thần tứ pháp, thờ mẫu…nên đã tồn tại và phát triển rộng khắp cho tới ngày nay.

          Đạo phật tồn tại là một tất yếu của lịch sử nhân loại, nhằm dung hòa những đau khổ của con người trước những bất công trong một xã hội đã phân hóa thành nhiều tầng lớp. Với Đạo phật thì mọi thành phần, mọi tầng lớp trong bất kể xã hội nào cũng tìm được ‘chỗ đứng’ cho mình, vì trước hết đó là một hệ triết học mở, không cực đoan áp đặt, không đấu trang để cướp đoạt một cương vị nào trong thế giới nhân sinh. Đạo phật đã đi sâu vào nhiều mặt của thế giới quan và nhân sinh quan để tìm cứu cánh giải thoát, đặc biệt là ở mặt tư tưởng, hưởng tới cái tâm (cái cốt lõi, cái thần thức ẩn trong mỗi chúng sinh…)

          Một điểm rất đáng tôn trọng là đạo phật tùy duyên mà hóa độ, tự dung hội với các dòng tư tưởng và tín ngưỡng nơi nó tiếp cận, không làm biến dạng truyền thống văn hóa ở nơi Phật pháp được hoằng dương. Nó chỉ vì nỗi đau khổ của mọi chúng sinh, gạt bỏ ý đồ thống trị xã hội mà mục đích cuối cùng của đạo Phật, đức Phật từ bi là khuyến thiện, trừng ác, giáo dục lòng nhân nghĩa cho con người. Ngôi chùa của làng Phú Thọ cũng đang mang trong mình cái ý tưởng cao đẹp, vĩnh hằng đó. Cùng với những thiết chế văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo khác chùa Phú Thọ gắn bó chặt chẽ với mỗi người dân trong làng từ bao đời nay, đồng thời bảo lưu những giá trị văn hóa truyền thống khác.

III. ĐỀN THỜ ĐẠI VƯƠNG ĐÀO QUANG NHIÊU, ĐÌNH – MIẾU – CHÙA TIÊN LỮ.

Thôn Tiên Lữ xưa kia có tên gọi là - xã tuyền cam- Phủ ứng thiên. Còn có tên gọi khác là Làng Lựa. Nay gọi là Thôn Tiên Lữ - xã Dân hòa- Huyện Thanh Oai- Tp Hà nội.

Nằm ở phía đông nam gần cuối xã Dân Hòa, sát trục đường liên xã, có diện tích đất tự nhiên là = 44,5(ha). Là vùng chiêm chũng  Nhân dân sống chủ yếu sản xuất nông nghiệp, kết hợp sản xuất nghành nghề tiểu thủ công nghiệp và kinh doanh dịch vụ. Thôn có 2 tôn giáo phật giáo và Thiên chúa giáo sống rất hòa thuận. Từ xa xưa, cho đến tận bây giờ vẫn còn lưu giữ được những rấu tích như bia hạ mã xe ở đầu làng là khối đá vuông xưa kia dùng để quan lại lên xe và xuống ngựa. Năm 1647 Quan đại Vương Đào Quang Nhiêu bỏ tiền da mua đất, trồng cây, dựng lều, lập phiên mua bán, chợ họp kéo dài từ đầu làng qua khu vực giếng cổ. Phiên chợ lúc ấy rất đông vui và trở nên nổi tiếng cho mãi đến năm 1945, do vỡ đê, chợ dần dần mất đi, tuy nhiên ngày nay dân trong vùng vẫn nhớ đến chợ lựa và tấm bia ghi về việc lập chợ vẫn còn.

  1. ĐÌNH – MIẾU TIÊN LỮ

Hiện diện trên mảnh đất “Địa linh nhân kiệt” ấy từ giếng cổ chạy dọc theo đường Làng xuống phía nam là ngôi Đình làng cổ kính rêu phong nằm trên khuôn viên rộng bằng 1200m2  được trạm khắc rất tinh sảo với những hình thù rồng, nghê mang đậm dấu tích của thời nhà Lê.

 Đình được nhân dân thờ Thành hoàng Làng. Nhị vị đại Vương Tiên Dung Công Chúa Chính Thục đức Đại Vương. Trải qua các thời kỳ trong những năm 30 thế kỷ thứ nhất sau công nguyên trong Đình còn lưu giữ được 14 sắc phong vua ban tặng cho những người có công để nhân dân luôn tưởng nhớ và coi đó là kỷ vật vô giá để lưu truyền cho thế hệ mãi mãi về sau:

Cũng tại ngôi Đình này, năm xưa các cụ thường tổ chức tế lễ từ 12 đến 15 tháng 3 âm lịch để tưởng nhớ công đức của nhị vị Đại Vương Tiên Dung công Chúa, đến năm 1945 việc tế lễ không duy trì được do vỡ đê và nạn đói. Đình từng là nơi che dấu cán bộ cách mạng. Sau hòa bình lập lại Đình Làng là trường học, hội họp và bàn các việc trong Thôn. Cuối những năm 90 của thế kỷ 20 Đình đã được nhân dân tu sửa tôn tạo lại và khôi phục lại tế lễ vào ngày 12 tháng 3 âm lịch và tổ chức rước da ngôi miếu cổ, tương truyền sưa kia các cụ trong Thôn kể rằng ngôi miếu bây giờ (cách Đình khoảng 30m), tọa làng trên một gò đất mà tương truyền là nơi hóa của Nhị vị đại vương. Miếu còn có tên gọi khác là Ngôi miếu mụ sau cuộc khởi nghĩa đánh đuổi quân nam hán hai bà đã hy sinh và trôi dạt về đây do quá trình thời gian tạo hóa bồi đất, mối đùn do vậy nhân dân đã dựng miếu tôn thờ, và kể từ ngày đó nhân dân tổ chức rước và tế lễ tại ngôi miếu cổ này.

Đình Miếu Tiên lữ không đơn thuần là một công trình văn hóa thờ phụng thành hoàng mà còn là di sản do cha ông đã hưng dựng và truyền lại cho thế hệ hiện sinh. Tiếp bước cha ông, các thế hệ Tiên Lữ luôn có ý thức giữ gìn, bảo tồn để trao truyền và hướng cho thế hệ mai sau luôn nhớ tới đạo hiếu uống nước nhớ nguồn. Với mục đích đó những năm qua, chính quyền và nhân dân thôn Tiên Lữ đã luôn quan tâm, đem tâm để trùng tu, sửa chữa, thiết thực bảo tồn và phát huy giá trị di tích, cụ thể:

Năm Tự Đức 33 (1880) trùng tu lớn Ngôi Đình

Năm 1949 tu sửa các hạng mục công trình kiến trúc của Đình

Năm 2001 thay 4 cột, năm 2007 thay 7 cột của Đình

Qua các lần tu sửa, hiện tại các hạng mục kiến trúc của Đình – Miếu Tiên Lữ trong trạng thái tốt, góp phần phục vụ nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân địa phương và du khách thập phương.

          Và năm 2011 được sở văn hóa thể thao và du lịch Thành Phố Hà nội công nhận là di tích lịch sử cấp Thành Phố

  1. CHÙA TIÊN LỮ:

Làng Tiên Lữ mặc dù còn giới hạn về dân số song hiện nay tại làng Tiên Lữ có nhà thờ và ngôi chùa chánh pháp rất linh thiêng với tên gọi là ngôi chùa cổ (Linh Quang Tự)

Theo văn bia nghi lại thì chùa Tiên Lữ bây giờ và xưa kia có tên gọi là chùa cổ (Linh Quang Tự) được thể hiện ở: Bia ký muôn đời phụng thờ hậu phật.

Được viết như sau:

Lòng từ thiện bắt đầu từ cửa từ bi, cũng như trăng sáng đêm rằm. Người thiện làm việc thiện, cũng như gấm thêu thêm hoa, cũng là việc muốn tài bồi quả phúc cho mai sau. Chùa linh Quang đây là một danh lam thắng cảnh, sưa nay không hề sai pháp môn, cầu tất thông, cúng tất ứng từ khi có vị tôn sư tỳ khưu sáng tạo xây dựng nên, đến nay đã trải qua nhiều năm phong sương, nên chùa dần bị hư hại. Nay có vị môn đệ quê ở Thôn An Khoái là ông võ Bá Tử Đào Bá Đạt tự là như Lưu, và chính thất là bà Họ Đào, hiệu diệu Thịnh, và thứ nhất là nguyễn Thị Điều hiệu diệu Thọ. Trụ trì ở chùa này đã nhiều năm, muốn nối pháp lễ cửa Tổ Sư, làm rạng ngời phúc Đức.

- Em hiệu là Diệu Tâm: cô tổ xuân hoa em gái tự là thuần nghĩa, hiệu là nghĩa. Sử sách thì ghi lại danh sách công đức của nhân dân và người có công nhưng trong văn bia các nhà sử học thì không thấy nghi năm xây dựng, trong khuôn viên khu Lăng mộ được xây dựng năm 1995với sự công đức của gia đình cụ Vịnh và dân làng di chuyển hài cốt của các tổ sư từ mả đọ về an vị tại khu lăng mộ rộng trừng 40m2 đang thờ phụng các sư tổ đã bỏ đời nghiệp trần gian để tu hành tại chùa cổ (Linh Quang Tự) với sự che trở của bóng mát cây đa cổ kính dêu phong vẫn hiện hữu qua nhiều năm tháng  đã tạo nên ngôi chùa linh thiêng và vô thường cho đến tận bây giờ và cho thế hệ con cháu và nhân dân của người dân Tiên Lữ mãi mãi về sau:

Trong bia ký còn ghi rõ bài minh văn chuông chùa Linh Quang.

Toàn thể Thôn Tiên Lữ, xã Tuyền cam, huyện Thanh Oai, phủ ứng thiên trên dưới phụng thờ phật pháp. Nên làng có chùa có chuông từ cổ đã như vậy Thôn Tiên Lữ thuộc xã Tuyền cam, xưa là một làng danh tiếng có bậc hào kiệt xuất chúng nơi triều đình ….Đời truyền  lại rằng đình làng nổi tiếng trong thiên hạ. Ngôi chùa ở phía tây bắc thôn, gọi là chùa Linh Quang. Xưa nay thôn nhà cũng phiêu tán tản mát nhiều vào năm bính ngọ, gặp loạn binh đao, chuông chùa bị phá hỏng. Nay mọi người trong Thôn bắt đầu thu thập tài lực cùng thập phương, khôi phục đúc lại chuông chùa: trước sau trung thủy bèn hay trong Thôn nhà, có người Họ Nguyễn thấy việc đúc chuông sắp thành mà Thôn làng cũng tốn nhiều tiền của: tự nghĩ đấy là công đức lớn, chẳng nhẽ mình là người trong Thôn sao không gắng sức, góp phần. Rồi lại giao cho tôi viết bài ký thuật lại sự việc, lưu truyền muôn đời sau. Thật tốt đẹp thay, người làm việc thiện, tấm lòng sâu nặng.

Phàm làm điều thiện, thì lúc nào cũng được phù trì cho điều tốt đẹp và vui vẻ. Đó là ngũ phúc trong kinh thư là bách phúc trong kinh thi, từ sưa tới nay không có việc nào là không như thế ( dân làng cũng thấy tình này, sao như ấp này tự nhiên có chuông cho nên mọi người đều tôn vinh chữ thiện là tình sâu. Sách có câu rằng không có điều gì mà không làm được đến như việc đúc chuông, làm việc thiện tôi bèn lấy thuật sự việc đó viết nên bia ký vậy. Lại bài minh rằng.

(( Đây thôn tiên lữ, có chùa linh Quang

Lầu cao không gian, Hồng chung ở đó

Xưa hủy nay phục, mãi còn rực rỡ

Danh thơm, truyền mãi, tiếng ngọc muôn đời

Ai ai cũng thấy họ Nguyễn trong Thôn

Việc đúc chuông này, phục hồi vinh hiển

Nường râu bãi biển, thế sự sao cùng

Một lòng thiện niệm, Thiên địa mãi cùng”

Ngày lành tháng đầu mùa hạ năm mậu ngọ, Ông tiến sĩ khoa kỷ hợi, quê nông cống là Lê Huy Soạn bài ký.

Đồng thời năm 2011ngôi chùa cũng được nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp Thành Phố.

  1. ĐỀN THỜ ĐẠI VƯƠNG ĐÀO QUANG NHIÊU

Thực ra ông là con cháu dòng họ Nguyễn Gia (họ bố) nhưng vì sao lại đổi sang họ Đào (họ mẹ), giải thích việc này có một sự trùng hợp kỳ lạ giữa chính sử và các nhà nghiên cứu tâm linh.

http://static.cand.com.vn/Uploaded_CANDONLINE/nguyenbinh/44_minh15.jpg

Tướng công Nguyễn Gia - Đào Quang Nhiêu.

Cách đây 4 năm (chính xác là 12h đêm 24/10 năm Ất Dậu tức 25/11/2005 tại từ đường thôn Trung Bằng, xã Sơn Bằng, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh (cách Thanh Oai quê ông 500km), các nhà ngoại cảm đã ghi được những lời tâm sự của ông. Ông cho biết mình sinh năm Tân Sửu (1601), mất ngày 1/5/1672 (năm Nhâm Tý).

Đẻ được 3 tháng thì cha mất (mới 30 tuổi). Mẹ ông là con quan trong triều, một phụ nữ vừa đẹp vừa ăn nói nhẹ nhàng, được học hành tử tế, đối xử tốt với mọi người nên được nhiều người quý mến, kính nể.

Bố mất, ông được cậu (không có con) mang vào triều nuôi dạy nên ông nhớ ơn đổi họ thật của mình (Nguyễn Gia) sang họ Đào (húy là Quang Nhiêu).Cũng theo lời ông, họ Nguyễn Gia thông minh nhưng nóng tính không làm quan to được, chỉ giỏi về đường văn chương mà tiêu biểu là Ôn như hầu Nguyễn Gia Thiều.Còn họ Đào bên mẹ bình tĩnh, nhã nhặn, làm quan to hơn. Ông nói phúc Nguyễn Gia chưa tới mà ông nhờ phúc họ Đào nên mới làm nên nghiệp lớn. Ông mách bảo con cháu: Con người có cấu tạo linh khí rất hiện đại. Chết chưa phải là hết. Âm có sóng âm bay mãi trong không trung. Rồi đây khoa học phát triển sẽ có máy khuyếch đại sóng âm, nghe được tiếng nói của người cổ.Có một sự giống nhau ngẫu nhiên giữa các điều vừa nói với sử liệu trong sách "Đại Việt sử ký toàn thư" của Ngô Sỹ Liên cùng các tư liệu ghi trong bia đá (hiện nay vẫn còn tại đền thờ Đại Vương Đào Quang Nhiêu ở xã Dân Hòa).

Đặc biệt thuyết phục là gia phả họ Nguyễn Đào bản gốc chữ Hán viết vào tháng 5 năm Canh Ngọ (1750) do Đào Công Chấn viết, Nguyễn Gia (chỉ sao chép lại, hiện bản gốc lưu tại gia tộc ông Nguyễn Gia Hồng).Ông Hồng (đã mất) là một nhà tư sản xe điện nổi tiếng thời Pháp thuộc tại Hà Nội.

Theo gia phả, Tướng công Đào Quang Nhiêu thuộc dòng họ Nguyễn Gia. Ông nội là Nguyễn tướng công, tên húy là Phúc An, giữ chức Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng thời Lê, hiện mộ táng tại Thanh Oai. Bà nội (Hiền tằng tổ tỷ) là bà Từ Mỹ, được triều đình truy phong Chánh phu nhân họ Nguyễn.

Tương truyền ông bà nội của Đào tướng công rất giỏi nghề thuốc, để lại rất nhiều âm đức cho con cháu, được dân chúng khắp vùng ngưỡng mộ. Ông nội có 4 trai 2 gái (bà Từ Lộc và bà Từ Vân).

Bố đẻ Đào tướng công chính là con trai cả Nguyễn Lang, tên tự Chính Tâm, đương thời giữ chức Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân - Thị vệ sự tại Vệ cấm y, sau được phong thêm Tả đô đốc cánh quân phương Nam, tước Dũng Quận Công. Ông là một người hiền đức, có nhiều công lao với triều đình nhưng mất sớm (30 tuổi), hiện mộ táng tại xứ Đống Vua, xã Tảo Công, sinh năm Đinh Sửu, mất năm Đinh Hợi thọ 71 tuổi.

Đào tướng công theo gia phả sinh vào giờ Hợi ngày 13 tháng 12 âm lịch năm Tân Sửu (1601), mất vào giờ Tuất ngày 1-5 năm Nhâm Tý (1672), hưởng thọ 71 tuổi. Phần mộ lúc đầu tại xá Mả Ngẫu thôn Tiên Lữ, sau cải táng chuyển về xã Đôn Thư cùng huyện.

Ông có 2 bà vợ. Vợ cả là bà Vũ Đoan Tĩnh, người cùng quê thọ 83 tuổi, mộ táng tại xứ Đồng thôn Kim Bài cùng huyện. Vợ hai là bà Bùi Trinh Thuận, hiệu là Từ Kính, thọ 53 tuổi. Ông lấy bà hai khi đang nhận lệnh vua đi dẹp loạn tại Đức Thọ (Hà Tĩnh) phía Bắc sông La. Cha làm quan trong triều và bản thân bà có công giúp ông dẹp giặc nên được nhà vua sắc phong mặc dù tuổi còn rất trẻ.Trong số các con cháu của Đào tướng công, xuất sắc nhất có người con trai đầu với bà vợ cả là Đào Quang Huy nhiều mưu lược, hợp với ông tuy hơi manh động (Đào Quang Huy đã cùng ông tham gia nhiều trận đại chiến ở Quảng Bình) và 2 người cháu là Đào Tử Khuê và Đào Linh Công. Riêng Đào Tử Khuê thông minh, học cao biết rộng, được nhà vua mời vào dạy cho con cháu hoàng tộc ở Quốc Tử Giám.

Do Công lao đóng góp của Đào Quang Nhiêu đối với triều đình, với đất nước chủ yếu về mặt quân sự nên ông được xếp hàng danh tướng. Tương truyền từ bé ông đã có tướng mạo, tính khí hiên ngang của bậc võ tướng. Tổng Thái giám - Yến Quận Công Đào Quang Hoa (được coi là cha nuôi, chính là người đã sắp xếp nhân duyên của ông với bà cả Vũ Đoan Tĩnh) lúc bấy giờ rất có thế lực trong triều và quý mến ông (vì không có con nên cậu quý còn hơn con đẻ). 9 tuổi ông đã được vào vương phủ.

Do trí tuệ khác thường như người đã trưởng thành nên năm 13 tuổi ông đã được vua phong là Chánh đội trưởng Tả đội có nhiệm vụ trông coi, kiểm tra trướng, không lúc nào rời. Năm sau được giữ chức Quản binh, sắc phong Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân.

Đương thời, Phó GS-TS Phan Khanh dẫn tư liệu của sử gia Trần Trọng Kim, vua Lê bị chúa Trịnh chuyên quyền. Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, nội chiến tướng tương tàn 45 năm giữa Đàng trong và Đàng ngoài (1627-1672) - từ thời vua Lê Thần Tông đến Lê Gia Tông, lấy sông Gianh làm giới hạn.Trịnh - Nguyễn chia cắt đất nước, đánh nhau tới 7 lần, dân chúng vô cùng lầm than, đói khổ. Cuộc đời Đào Quang Nhiêu trải qua 3 đời chúa: Trịnh Tùng (1570-1623), Trịnh Tráng (1623-1657) - Trịnh Tạc (1657-1682) và 4 đời vua Lê Kinh Tông (1600-1619), Lê Thần Tông (1619-1643), Lê Chân Tông (1643-1649) và Lê Huyền Tông (1663-1671).Các chúa Trịnh đã nhiều lần rước vua Lê về Thanh Hóa khi có loạn ở Thăng Long, thậm chí có lần vào tận Nghệ An, Quảng Bình. Trong các lần ấy, chính tướng quân Đào Quang Nhiêu là người chỉ huy đoàn quân hộ xá nhà vua lúc đi cũng như lúc trở về. Trong bối cảnh triều chính đại loạn ấy mà vẫn đủ bản lĩnh giữ được chữ Trung thần, không ngả nghiêng mưu toan cầu lợi như Đào Quang Nhiêu thì thật đáng cho muôn đời nể phục.

Thăng Long xưa, Hà Nội nay không xếp ông vào hàng danh tướng có công đầu với đất rồng bay thì mới là chuyện lạ. Không chỉ việc hộ vệ xa giá nhà vua, Đào Quang Nhiêu còn lưu danh tên tuổi mình trong nhiều trận đánh nổi tiếng từng ghi trong sử sách. Như trận chém đầu giặc Xuân Quang (đồ đảng nhà Mạc) ở Thanh Liêm. Từ 25 đến 62 tuổi, dấu chân ông đi khắp mọi miền từ Thất Khê Lạng Sơn đến Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Không phải vô cớ mà khắp các vùng Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ có rất nhiều đền thờ ông như Thành Hoàng làng.18 năm được cử làm Trấn thủ Nghệ An - Hà Tĩnh và Quảng Bình, ông tham gia bảo vệ biên giới phía Nam, ổn định đời sống cư dân, giữ yên cho Bắc Hà. Theo gia phả họ Nguyễn Gia và tài liệu của nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc, có một trận đánh nổi tiếng ở ngay Hà Nội do ông tham gia vào năm 1645. Đó là trận tiễu trừ âm mưu đảo chính của 2 vương tử Phù quận công Trịnh Lịch và Hoa quận công Trịnh Sâm. Đào tướng công bài binh bố trận bên phía phủ chúa tại Cửa Nam. Đám loạn quân rất hung hăng, dương oai diễu võ tại phố Đình Ngang bây giờ. Binh mã kéo đến ầm ầm trà trộn vào dân chúng, ẩn hiện khắp các phố Hàng Ngang, Hàng Đào lớp lớp đông như kiến. Đào tướng công bình tĩnh chỉ huy 2 tướng tiên phong là Quỳ thọ hầu Khải Tất Đạt và Lộc thọ hầu Khải Tất Đạt mang quân khiêu chiến.Đánh nhau tới giờ Mùi (2 giờ chiều) mà vẫn không phân thắng bại. Vốn là nhà mưu lược thiên tài, Đào tướng quân huy động toàn bộ số cấm quân và người hầu trong Vương phủ rồi bí mật chia làm hai cánh quân trái phải. Một cánh vòng từ Ô Ông Mạc (tức Ô Đống Mác) qua Cầu Dền. Một cánh vòng qua cầu Muống tới Đàn Nam Giao (phố Kim Liên bây giờ).Cả 2 cánh bất ngờ đánh tập hậu. Khi đó có trống lệnh phát hiệu, đích thân Đào tướng quân chỉ huy đại binh đánh vỗ mặt. Quân phản loạn hồn kinh phách lạc, bỏ lại không biết bao nhiêu voi ngựa, vũ khí khắp khu vực Hồ Gươm, Tràng Thi, Tràng Tiền bây giờ. Trịnh Lịch bị bắt sống, nom thấy Đào tướng quân đã không dám ngẩng mặt lên. Nhà sử học Phan Huy Chú đã viết: Ông ở trấn 18 năm, chính lệnh nghiêm minh, giặc cướp vắng lặng, biên thùy yên ổn, ông là bậc danh tướng sau đời Trung Hưng. Chỉ một trận đó ông đã cứu nguy cho thành Thăng Long. Tại Hội thảo khoa học vừa qua, nguyên Thứ trưởng Bộ VHTT Trần Tiêu đã đề nghị cùng với việc đầu tư xây lại đền thờ, Hà Nội nên đặt tên phố hoặc tên trường học để ghi nhớ công lao tướng công Đào Quang Nhiêu. Nếu tới nay, các nhà quản lý có trách nhiệm của Hà Nội bớt chút thời gian lắng nghe tiếng vọng của lịch sử, kịp làm điều gì đó tri ân các bậc tiền nhân ngay giữa những ngày kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long thì hẳn cũng không muộn.Tuy chiến công lẫy lừng nhưng sinh thời Đào tướng công rất khiêm tốn. Ông nói mình là tướng quân sự nhưng chủ yếu là tướng văn, võ biết rất ít, chủ yếu dùng mưu mẹo, dùng lời ăn tiếng nói, biết tập hợp sức mạnh quân dân mà thắng quân thù. Chất nhân văn trong con người Đào Quang Nhiêu thể hiện rất rõ trong lời tự sự: "Ta chém giết không nhiều, phần lớn bắt được rồi thả. Với chính sách tù binh, ta cho họ ăn uống, cho quần áo mặc rồi trả về cho vợ con. Thả họ về thì họ giúp lại ta".

Trong lời di huấn, ông căn dặn con cháu: “Bình sinh ta mở chợ, đúc cầu, lấy nhân nghĩa để vì dân, thờ nước, không cậy quyền cậy thế, việc thiện thì làm việc ác thì tránh. Có lộc đừng hưởng hết, có uy đừng cậy hết".

Tài đức tiếng tăm của ông bay sang tận Trung Hoa. Năm Quý Mùi (1653), trong dịp phụng mệnh nhà vua lên Lạng Sơn tiễu trừ nhà Mạc, quan Tổng binh Vân Nam từ phía Đông trở về tha thiết muốn gặp Đào tướng công. Biết ông là một danh tướng nước Nam, Tổng binh muốn mời Tướng công đến một mình.

Chối từ mãi không được, Đào tướng quân chọn một viên thuộc tướng có hình dáng dũng mãnh giống mình sang gặp. Chẳng ngờ quan Tổng binh là người xem tướng giỏi nên buồn bã nói rằng: “Đã từ lâu nghe tiếng trung nghĩa của chủ ông. Muốn gặp nhau một lần, để diện kiến đại danh, có ý gì khác đâu. Có chi phải nghi ngờ mà lại sai người khác đi thay vậy?".

Người tướng đi thay lúng túng thanh minh rồi xin lỗi cáo lui. Gặp Đào tướng quân, viên tướng thuật lại mọi chuyện. Nghe xong ông lại xin vua cho đi. Vua đồng ý và cho mặc phẩm phục hàng quan nhất phẩm của triều đình. Đào tướng công mặc giáp trụ oai nghiêm, đội ngũ tháp tùng chỉnh tề, lại có cả voi ngựa hùng dũng đi theo.

Tổng binh vừa nhìn thấy đã lạnh hết sống lưng, vỗ tay mà khen rằng: "Kỳ tài, kỳ tài. Đúng là nước Nam có người tài giỏi, tiếng đồn quả không sai!". Nói rồi sai ba quân đón rước theo nghi lễ trọng thể, đàm đạo chuyện thế sự sau mở đại tiệc khoản đãi. Tổng binh thử hỏi về các tướng tài Trung Quốc như Tôn, Ngô, Quách, Lý - Đào tướng quân bàn luận rất sắc sảo, nói cả cái hay cái dở của các vị tướng Tàu khiến Tổng binh vô cùng khâm phục.

Tổng binh luôn mồm: "Lạ thật! Lạ thật!" rồi bất chấp cả phép xã giao, ông xin được xem tướng Đào tướng công và thốt lên: “Đúng là có tướng quý! Tôi kính trọng ngài có tiếng tăm, có con mắt rất kỳ lạ, sau tất là bậc tài năng lớn lao của nước Việt. Tôi mừng cho nước ngài có được người như ngài".

IV: ĐÌNH – CHÙA THÔN AN KHOÁI

  1. CHÙA AN KHOÁI.

Dân Hòa là một vùng đất cổ nằm ở Phía Nam huyện Thanh Oai, nơi còn in đậm nhiều dấu tích lịch sử thời dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tương truyền giếng ngoài đồng ở thôn Vũ Lăng, giếng làng thôn Phú Thọ, Tiên Lữ, An Khoái đều là dấu tích chân ngựa của Thánh Dóng trên đường truy đuổi giặc Ân. Hầu hết các ngôi Đình, Đền trong xã đều phụng thờ các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng đã đứng lên đánh đuổi giặc Đông Hán giành độc lập cho dân tộc và những năm đầu thiên niên kỷ.

Dân Hòa không chỉ là vùng quê có bề dày lịch sử truyền thống mà đây còn là vùng đất Địa linh nhân kiệt với nhiều bậc đại khoa, trung khoa, quận công, võ tướng đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng dưới thời quân chủ tiêu biểu như: Nguyễn Bá Ký đỗ đệ nhị tam giáp đồng Tiến sĩ khoa Quý Mùi năm 1463, Nguyễn Đức Lượng (Trạng cậu) đỗ Trạng Nguyên năm Hồng Thuận thứ 5 (1514), đời vua Lê Tương Dực, Nguyễn Thiến (Trạng cháu) đỗ Trạng Nguyên năm Nhâm Thìn ( 1532) đời Mạc Thái Tông, Nguyễn Khuông Lễ đỗ Tiến sỹ năm 1535, Nguyễn Quyện là võ tướng trấn thủ Nam Thăng Long đời nhà Mạc được phong Thái hầu thưởng Quận công và Quận công Đào Quang Nhiêu (1601 – 1672) được giữ chức trấn thủ Nghệ An, kiêm bố chánh và làm tổng các sứ Sơn Nam, Cam Tuyền đốc xuất quân thủy bộ để chống giữ biên thùy…nhưng lại rất giản dị, khiêm tốn. Trong lời di huấn cho hậu thế Ông từng viết “ Tôi vốn là người lính bình thường may mà được Thượng đế giáng sinh, lòng trời ứng nhập trở thành người trung lương của nước Nam Việt. Kể từ các Ông ở triều trước như: Đại nguyên soái Chiêt Liệt đại vương, Thượng trụ, Quốc Thượng khanh Chiêu Anh đại vương, Hữu Duệ Đại vương, Thái bảo Dũng quận công..là những người dày công tu đức, dựng nghiệp làm nên, suốt đời thanh bạch…”

Sách “Đại Nam nhất thống chí”, tập III, trang 218 chép về ông như sau: “Người huyện Thanh Oai, đời Gia Tông tòng chinh có công, ra trấn Nghệ An kiêm châu Bố chính, phó tướng thống suất Tả Khuông quân dinh là bậc danh tướng sau trung hưng làm đến Thiếu úy, tướng Dương quận công, là người có tiểu thủ, độ lượng, khoan hậu. Khi mất được tặng Thái tể phong phúc thần”.

Trong quá trình cư tụ, tạo lập xóm làng, các thiết chế văn hóa được lập lên nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm linh của con người. Cũng giống như các ngôi chùa khác trong vùng chùa An Khoái được khởi dựng để thờ Phật theo phái Đại Thừa, một tôn giáo được du nhập vào nước ta từ rất sớm. Những nội dung giáo lý của Đức Phật phù hợp với tâm lý của người Việt, nghi thức hành lễ lại giản dị nên đạo Phật đã phát triển mạnh ở nước ta và có lúc như Quốc giáo ở giai đoạn đầu của Nhà nước Đại Việt. Chùa An Khoái ra đời đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân trong vùng. Ngôi chùa vừa là dấu vết kiến trúc Phật giáo vừa là nơi gửi gắm niềm tin và ước vọng của nhân dân cầu mong một cuộc sống no đủ, bình an, đồng thời là nơi giáo dục con người lòng từ bi, bác ái. Tại Chùa An Khoái hiện nay có sự hiện diện của những nhân vật lịch sử có mối liên hệ đặc biệt Phật giáo Đại Thừa được hiện thân qua tượng thờ là: Đức Ông (ngài Cấp Cô độc một vị trưởng giả giàu có mà có lòng từ tâm đã đem của cải giúp đỡ người nghèo khó, cô quả và hiến tặng đất xây Chùa thỉnh phật cứu giúp cho dân; Ngài được Đức Phật giảng đạo mà giác ngộ nên Đức Phật giáo cho Ngài cai quản cảnh chùa của thế gian). Ban thờ Đức Ông ở bên trái nhà tiền đường, người đi lễ chiêm bái khi vào chùa cần thắp nến hương xin phép Ngài rồi mới vào lễ Phật. Tại tòa tam bảo có sự hiện của các vị Phật; Tam thế thường trụ diệu pháp thân hay còn gọi là Tam Thế tam thiên Phật có nghĩa là ba nghìn vị Phật nối nhau theo trục thời gian quá khứ, hiện tại và vị lai để giáo hóa chúng sinh trong ba đại kiếp. Đức phật là người đã dứt khỏi luôn hồi, đạt giác ngộ hoàn toàn, đạt giải thoát, chứng Niết bàn. Phật là người đã vượt qua mọi tham, sân, si, hỷ, nộ, ái, ố. Phân biệt thiện ác nhưng tâm không vướng mắc vào các phân biệt đó. Sau khi thị tịch Phật không còn tái sinh. Trong lịch sử  Phật giáo thì Đức Phật A Di Đà được tôn thờ sớm nhất, trước đó Ngài là một vị vua sau khi nghe Phật thuyết pháp lập tức Ngài ngộ và từ bỏ ngai vàng theo Đức Phật quy y, Pháp danh là Pháp tạng và phật hiệu là A Di Đà nghĩa là “ vô lượng quang” (ánh sáng vô lượng), “vô lượng thọ” (thọ mệnh vô lượng). Adi đà trụ trì cõi cực lạc ở Tây Phương có nhiệm vụ dẫn dắt chúng sinh về cõi tịnh độ. Dưới Đức phật là Quan Âm ngài thường hay phù hộ cho chúng sinh thoát khỏi mọi tai nạn, chướng ngại phù cho tăng tài, tăng lộc, tăng trường thọ. Bên trái A di đà là tượng Đại thế chí Bồ Tát cả ba hợp lại là bộ Di Đà tam tôn cũng gọi là Di Đà tiếp dẫn.

Dưới Đức phật Adi Đà còn có sự hiện diện của Đức phật Di lặc ngài là Phật vị lai, là người sẽ nối tiếp sau Đức Phật Thích ca Mâu ni. Khi Thích ca đã thành Phật mà còn ở cõi thế gian thuyết pháp thì Di Lặc thường xuống nghe giảng đạo. Đức được diễn tả thành tượng một vị có dáng thư thái, thanh thản, hết ưu tư của bậc tu hành sắp đắc đạo thành Phật, miệng cười lạc quan những dấu hiệu thể hiện sự viên mãn đắc đạo. Các Đức Phật, Bồ Tát, Di lặc Phật, Quan Âm Bồ Tát đã nhập thân vào thần tượng trên Phật điện của Chùa An Khoái. Tại các ban thờ hai bên Thượng điện và nhà tiền đường còn có sự hiện diện của các nhân vật lịch sử Phật giáo như: Đức Thánh Tăng. Ngoài thờ Phật, chùa An Khoái còn thờ Mẫu, thờ Đức Thánh Trần, thờ Tổ, thờ Hậu theo tín ngưỡng dân gian thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chiến tranh chống Mỹ của dân tộc, chùa An Khoái còn là nơi nuôi dưỡng, che dấu, liên lạc của cán bộ Việt Minh thuộc Liên khu Nam (Thường tín – Tả Thanh Oai – Thanh Trì - Ứng Hòa) về địa phương hoạt động.

Chùa An Khoái có khởi nguồn tạo dựng từ rất sớm để thờ Phật theo phái Đại Thừa và thờ Tổ, thờ Mẫu theo tín ngưỡng dân gian thể hiện đạo lý dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”, cũng như các ngôi chùa làng khác quanh vùng, chùa là trung tâm sinh hoạt văn hóa tâm linh của một cộng đồng dân cư, đặc biệt là các hoạt động văn hóa, lễ hội là một phần không thể thiếu được trong mỗi di tích lịch sử văn hóa. Các hoạt động này đã góp phần không nhỏ để duy trì bản sắc văn hóa dân tộc, phát huy giá trị của di tích và qua đó tăng chúng đưa đạo pháp đến với con người.

  1. ĐÌNH AN KHOÁI

Xã Dân Hòa nằm ở phía Nam huyện Thanh Oai trong một vị trí thuận lợi, phía Bắc giáp xã Đỗ Động, phía Đông giáp xã Tân Ước và Liên Châu, phía Nam giáp xã Hồng Dương, phía Tây giáp xã Cao Dương và xã Phương Trung, với địa thế ấy nhân dân xã Dân Hòa từng ngày hòa nhịp với cuộc sống sôi nổi của đất nước. Ngã tư Vác từ xưa tới nay đã trở thành nhịp nối với nhân dân khắp nơi trong vùng, những người dân thôn quê chủ yếu sống bằng nghề nông nhưng trong họ luôn luôn có lòng tự tin mãnh liệt vào cuộc sống, lao động, chiến đấu. Họ luôn đoàn kết, đùm bọc, thương yêu nhau từ lúc bình thường cũng như lúc hoạn nạn. Trải qua bao biến đổi của các thời kỳ lịch sử xã hội, những phẩm chất tốt đẹp đó đã được bồi đắp từ thế hệ cha ông cho đến ngày nay.

Ngôi đình thờ thành hoàng với tư cách là một thiết chế tôn giáo, văn hóa, xã hội, hành chính của mỗi làng đã xuất hiện từ khoảng đầu thời Lê sơ (thế kỷ XV). Từ khi ra đời, hòa nhập vào đời sống làng xã Việt Nam, ngôi Đình đi liền với những ngôi chùa thờ Phật, đền thờ thần linh đã trở thành những thiết chế tôn giáo, tín ngưỡng không thể thiếu ở mỗi làng thôn Việt Nam.

Tuy cùng nằm trong quần thể các công trình tín ngưỡng, tôn giáo của làng, do những nguyên nhân lịch sử văn hóa và tín ngưỡng mà ngôi đình đã nhanh chóng trở thành biểu tượng của sự to lớn, vững chắc của cộng đồng và được các làng coi trọng. Ngôi đình đã được tôn vinh bằng những tình cảm lớn lao là nơi thờ thành hoàng – vị thần bảo hộ cho dân làng trong cuộc sống.

Căn cứ vào lời kể của những người cao tuổi trong làng và các đạo sắc phong hiện bảo quản tại di tích thì Đình An Khoái là nơi phụng thờ Tây Nhạc linh thông cảm ứng đại vương.

Trong mỗi làng quê Việt Nam, người Việt đã có những tín ngưỡng thờ cúng rất đa dạng. Họ thờ cả các nhân thần, nhiên thần và thiên thần. Việc thờ phụng thần linh nhằm đáp ứng các nhu cầu trong tâm linh sâu thẳm của mình. Nhưng ở Đình An Khoái, không phải phụng thờ nhân thần, thiên thần,…mà là nơi phụng thờ Cảm ứng thần.

Theo Thần tích – thần sắc làng An Khoái – Tổng Thủy Cam – huyện Thanh Oai – tỉnh Hà Đông ký hiệu TT-TS-FQ 40 18/II 54 năm 1995 được lưu giữ tại Viện thông tin khoa học xã hội cho biết:

Phần tiếng việt trong tờ khai năm 1938 như sau:

“ Chúng tôi là Chánh hội Đào Công Đa, Lý trưởng Nguyễn Gia Độ, phó lý Nguyễn Gia Tám đều là làng Yên Khoái, tổng Thủy Cam, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông. Xin điều tra các khoản sau này: khoản thứ nhất – tên làng (làng Yên Khoái, tổng Thủy cam, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông), khoản thứ hai: Thần, Thành Hoàng. Làng chúng tôi thờ hai vị thành hoàng là:

  1. Ngài húy là nhạc, ngài là Thiên thần

2. Ngài họ Đào tên húy là Tuấn, sinh ngày 03/04 năm Kỷ Mão, ngài Phong Quốc công về cuối đời nhà Trần, sau làm quan nhà Lê. Ngài chính là người làng Yên Khoái, khi ngài đã hóa rồi làng mới thờ. Các ngàu đều có sự tích và sắc phong xin sao riêng…

Khoản thứ ba: những nơi thờ

“Vị thứ nhất thờ ở Đình, vị thứ hai thờ ở Miếu…”

Theo lời kể của các cụ trong làng: Vào một buổi ban mai, có một lão phu làng An Khoái thức dậy đi ra rìa làng. Bỗng nhiên, lão phu nhìn thấy một vị tiên ông tay chống gậy trúc, đầu tóc bạc phơ đang đứng từ đỉnh núi phía Tây tiến về làng An khoái ban phúc cho nhân dân. Nhìn thấy cảnh tượng này, lão phu liền chạy về làng hoan hỉ báo tin cho dân làng biết. Về sau, cảm tất thông cầu tất ứng, dân làng làm bản tấu trình lên triều đình, xin huệ diệu về thờ. Triều đình chuẩn tấu, từ đấy về sau lấy tên gọi Tây nhạc Linh thông làm thụy hiệu. Trải đến đời Trần, khảo lục Bách thần, ngài được phong là “ Thần Tối linh”, liệt vào tế lễ quốc gia, gia phong mỹ tự 4 – chữ là “ Cảm ứng, Đoan gia, Hoằng tĩnh, Hiển ứng”. Đến đời Lê, gia phong là “ Hiển ứng, diễn khánh bảo hộ an dân, bác trạch sùng phúc tuy lộc bảo hựu hậu đức trí nhân, phổ trạch triệu mưu tá bích sùng phúc long ân diên hi khang, phất hoằng hưu nghiêm chính thi nhân tập phúc hộ quốc bảo trị linh sảng tôn thần”. Năm Tự Đức thứ 33 (1880), gia tặng “cho phụng thờ như cũ”. Năm Khải Định thứ 9 (1924) gia tặng là “ Tủng bạt trung đẳng thần”.

Theo cụ Nguyễn Gia Luyến 72 tuổi – chi hội trưởng chi Hội người cao tuổi thôn An Khoái – nguyên Chủ tịch mặt trận xã Dân Hòa cho biết: Ngoài ra, tại Đình An Khoái còn phối thờ ngài húy Quang Tuấn (anh trai quan Thái Bảo yến Quận công hiện đang được thờ tại chùa An Khoái).

Ngài có sức lực uy nghiêm hùng nghị, phù giúp họ Lê, không may mất sớm. Ngài sinh ngày 03/04 năm Kỷ Mão, mất ngày mồng 4 tháng 12 năm Quý Mão. Ngài rất linh ứng, dân lập miếu bài phụng thờ, nhân đó gọi tên là miếu Trung Hòa. Triều Lê sắc phong là “Uy nghiêm trấn quốc anh nghị dũng lược hùng trí phúc lộc, bác trạch độ hóa hộ quốc phù tộ hậu đức chí nhân cảm ứng hùng tài vĩ, tích lập khánh tán trị phù nghiệp trợ thắng dương uy chấn văn diệu vũ nhân trí minh quang trứ đức dương linh phù vận chính thừa hưu tích cổ tôn thần” Đến đời vua Khải Định thứ 9 (1924) gia tặng là “ Đoan túc tôn thần”.

Tương truyền, trước kia ngôi miếu được xây dựng ở ngoài cánh đồng cùng quần thể di tích Đình – Chùa – Miếu An Khoái. Đến năm Bảo Đại nguyên niên nguyên niên (1926) sau khi ngôi Đình được chuyển về vị trí hiện nay. Để tránh lũ lụt, nhân dân địa phương đã rước ngài về thờ tại Đình An Khoái.

Sắc phong năm Tự Đức thứ 10 (1857) hiện được bảo lưu tại Đình An Khoái: sắc cho vị thần được phong là Tây Nhạc linh thông cảm ứng chi thần. Thần từng giúp nước giúp dân, nhiều lần linh ứng. Nay vâng mệnh lớn, nhớ ơn thần phù giúp mà ban tặng là Hùng trấn chi thần. Chuẩn định cho xã Thủy Cam huyện Thanh Oai phụng thờ như cũ. Thần sẽ phù giúp che chở dân ta. Kính thay.

Ngày mồng 3 tháng 10 năm Tự Đức thứ 10 ( 1857)

V. ĐÌNH – ĐỀN – CHÙA VŨ LĂNG

          1. Đình – Đền Vũ Lăng:

          Làng Vũ Lăng thuộc xã Dân Hòa, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây nay là thành phố Hà Nội, nằm cạnh quốc lộ 21B. Theo phả tích và truyền thuyết thời cổ, triều Lê Cảnh Hưng trở về trước, làng có tên là Vũ Lăng Trang, thuộc xã Tuyền Cam, tổng Tuyền Cam, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên. Đất làng Vũ Lăng hiện nay là thủ phủ Ứng Thiên ngày xưa, dấu tích ấy ngày nay vẫn còn ở các địa danh gò đống, mang tên Tràng Học, ao Quan, ao Lăng, gò Dinh, gò Cột cờ, gò Buộc Ngựa, mộ Bà Chúa.

          Trải qua bao năm tháng cùng biến động thăng trầm của lịch sử, làng xóm đổi thay, nhưng dân làng vẫn phát huy truyền thống quý báu của cha ông. Gạn đục, khơi trong, chắt lọc những tinh hoa tốt đẹp, xây dựng thuần phong mỹ tục của làng, tình làng nghĩa xóm luôn được coi trọng và không ngừng phát triển.

          Làng có Đình, đền, chùa là nơi tín ngưỡng của nhân dân và cũng là trung tâm giao lưu sinh hoạt văn hóa của làng, xóm.

          Đình, đền làng tôn thờ vị lão tướng ở triều nhà Lý văn võ song toàn, có công lớn với dân với nước, khi mất được các triều vua phong sắc là thượng đẳng thần.

          Sự tích Đông Hải Đoàn Đại Vương Trung Thần Triều Lý:

          Vương họ Đoàn, húy Thượng, người xã Thung Độ, huyện Gia Lộc, đạo Hải Dương, Cha là Đoàn Trung, mẹ là Phạm thị, gia đình truyền đời danh giá hiển hoạn quan danh. Tuổi già về hưu bèn đi cầu tự ở chùa Sơn Tây mà sinh ra ông, cha mẹ rất yêu quý đặt tên cho là Thượng. Khi trưởng thành ông là người trung hiếu hiểu lễ nghĩa, luôn giữ đạo cương thường, nổi tiếng văn chương, võ bị tinh thông, có chí lớn như các bậc đại trượng phu thời bấy giờ. Năm 21 tuổi, cha mẹ mất đi, đến khi hết tang cùng là lúc Lí Anh Tông nhường ngôi cho thái tử hiệu là Cao Tông. Cao Tông lên ngôi ban chiếu tìm các bậc hiền lương phương chính, văn võ toàn tải. Thượng công nghe lệnh chi liền về kinh ứng thí, vua vui mừng, phong cho ông làm Thị tòng, không bao lâu lại ban cho làm Tham chính, được ơn mưa móc nhuần thấm hương hỏa hữu duyên. Cao Tông xuất gia bèn nhường ngôi cho Thái Tử. Hoàng thái tử lên ngôi lấy hiệu là Huệ Tông. Lúc bấy giờ bốn phương biến loạn, trộm cắp nổi lên bèn lệnh cho Thượng công điều binh đánh đông dẹp bắc, ông lập được nhiều chiến công lớn, nhiều lần được đội ơn ban thưởng, lại cùng nhũ mẫu với vua, tình thân ái càng ngày càng thêm gắn bó, xem khắp nhân sơn trí thủy thấy phong cảnh hữu tình bèn lập hàng cung làm nơi nghỉ ngơi, tổng cộng 72 nơi.

Một ngày đi đến trang Vũ Lăng, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên đạo Sơn Tây thấy một khu đất ở trang ấy sông nước khả ái bèn dựng một cung và nói với nhân dân rằng: ‘Cung đất này đối diện với trời xanh kia”, vì thế gọi cung thương, và dâng biểu lên xin được làm ấp hộ nhi được miễn mọi phu phen tạp dịch. Huệ Tông ban cho, Thời vua Huệ Tông bị bệnh liệt nên không có con trai mà chỉ có hai người con gái, người thứ nhất là Thiên Hinh Công Chúa đã gã cho Trần Liễu. Con gái thứ hai là Công chúa Phật Kim lấy Trần Cảnh. Thiên hạ quyền lực trong thiên hạ bấy giờ đều về tay họ Trần. Huệ Tông xuất gia bèn nhường  người con gái thứ là Phật Kim Công chúa, công chúa lên ngôi hiệu là Chiêu Hoàng. Cơ đồ đều bị bỏ rơi vào tay Trần Cảnh, lấy hiệu là Trần Thái Tông. Ông bèn chỉ trời vạch đất thề rằng không đội trời chung với Trần Cảnh, bèn rút kiếm chạy về Hồng Châu tập hợp bè đảng, dựng doanh trại, xây thành trì ở An (Yên) Nhân, tự xưng Đoàn Đại Vương, chiếm cứ cả đạo Hải Dương, lại xưng là Đông Hải Đại Vương.

          Bấy giờ có một đạo ở Kinh Bắc cũng bị Nguyễn Nộn trấn giữ, có chí muốn ôm thiên hạ về cho nhà Lý, mới giao cho con trưởng là Đoàn Văn Bảo giữ đồn chính An Nhân, tự mình đi xuống vùng Tây Nam chiêu dụ. Khi đi qua cung Thương nói với mọi người rằng: “ Ta ba bốn năm nay, hận chú cháu họ Trần tiếm ngôi nhà Lý, huống hồ bậc quân thần đại nghĩa luôn giữ nỗi di niềm kẻ cô trung không nguôi báo thù, nay ta có 5 hốt vàng giao cho nhân dân trông coi cung sở của ta và hương hỏa cho ta sau khi ta trăm tuổi. Chú vua Trần là Trần Thủ Độ bàn với cháu rằng: “Nay nhà ta mới lấy được nước, lòng người chưa theo mà Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn đều là những con hổ, trấn giữ Đông Bắc, lấy uy vũ mà quy phục lòng người, trời sẽ ban cho ân huệ chăng, chẳng bằng lập mưu khiến hai hổ (375) đánh nhau, ta thừa cơ thả hổ bắt rồng, đấy là thượng sách. Thái tông vui mừng bèn đưa thư cho Nộn, nói rằng, nếu giết được Thượng thì chia thiên hạ làm ba, cho Ông ta làm vua một phương. Nộn vui vẻ nhận lời, viết thư cho thượng rằng: “Ngài cngx có ý phù Lý diệt Trần, ta xin được cùng ngài hỏa hiếu như môi với răng”.

          Thượng công trong lòng phấn khích, hai bên giao ước cùng minh thệ tại đất Đồng Đao. Đến ngày hẹn, Thượng công sơ ý không nghi ngờ gì, cùng với mất đệ tử mươi người cầm đao phi ngựa đến Đồng Đao thì bị quân Nộn phục binh bốn phía, xông lên bao vây, ông ở trong trận xông ra chém tướng sĩ của Nộn được mấy trăm đầu, quân của Nộn và quân nhà Trần đến tiếp viện ngày càng một đông. Ông biết không thể thoát được, bèn ngước lên trời mà than rằng: “Anh hùng thất thế biết nói gì đây, nghìn năm mang hận tên giặc Nộn”.

          Lại nói rằng:

          “Lòng ta gắng báo nghĩa vua tôi

          Thấu chăng, hỡi đất thấu chăng trời?

          Quân vương có tỏ nơi chín suối?

          Dậu rằng biết được cũng vậy thôi”.

          Than thở một hồi, bèn dùng kiếm báu tự vẫn, nhân dân bản thôn nghe tin bèn dựng miếu phụng thờ, truy ơn công đức ghi thần hiếu mĩ tự ở cung Thương chốn cũ phụng thờ, tỏ rõ linh ứng. Nhà Trần bao phong mĩ tự là Thượng đẳng thần, ban cho 72 địa phương mang duệ hiệu về phụng thờ, truy tôn là Đông Hải Đoàn Đại vương, tặng: Suy trung tá lý Hùng Nghị Thượng đẳng thần.

          Phụng mệnh ghi ngày sinh ngày hóa, các tiết khánh hạ cùng chữ húy cấm dùng: Thượng, sắc phục màu vàng khi hành lễ không mặc được.

          Ngày sinh thần Đông Hải Đoàn Đại vương (ngày 10/02), lễ dùng bàn trên cỗ chay, bàn dưới trâu bò, lợn, rượu, ca hát 3 ngày.

          Ngày Đại vương hóa ( ngày 10/4) lễ dùng bàn trên cỗ chay, bàn dưới lợn đen xôi rượu.

          Ngày khánh hạ (chúc mừng) ngày mồng 10/11, lễ dùng lợn đen, xôi, rượu

          Đương triều phong: Kiến nghĩa binh trung phù chính phi anh Hiển linh trác vĩ Dực bảo trung hưng Đông Hải Đoàn Thượng đẳng thần.

          Phụng sao thần tích xã Vũ Lăng.

  1. CHÙA VŨ LĂNG

Trong lòng người Việt Nam, mỗi ngôi chùa đều có vị trí vô cùng quan trọng. Đó là bởi vì mỗi ngôi chùa luôn gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng của nhân dân ta. Vào đầu năm mới, mọi người thường có thói quen đi chùa cầu may mắn. Một trong những điểm đến thu hút nhiều khách du lịch chính là chùa Vũ Lăng. Đây là một ngôi chùa với nhiều giá trị lịch sử văn hóa.         

Làng Vũ Lăng thuộc xã Dân Hòa, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây nay là thành phố Hà Nội, nằm cạnh quốc lộ 21B. Theo phả tích và truyền thuyết thời cổ, triều Lê Cảnh Hưng trở về trước, làng có tên là Vũ Lăng Trang, thuộc xã Tuyền Cam, tổng Tuyền Cam, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên. Đất làng Vũ Lăng hiện nay là thủ phủ Ứng Thiên ngày xưa, dấu tích ấy ngày nay vẫn còn ở các địa danh gò đống, mang tên Tràng Học, ao Quan, ao Lăng, gò Dinh, gò Cột cờ, gò Buộc Ngựa, mộ Bà Chúa.

          Trải qua bao năm tháng cùng biến động thăng trầm của lịch sử, làng xóm đổi thay, nhưng dân làng vẫn phát huy truyền thống quý báu của cha ông. Gạn đục, khơi trong, chắt lọc những tinh hoa tốt đẹp, xây dựng thuần phong mỹ tục của làng, tình làng nghĩa xóm luôn được coi trọng và không ngừng phát triển.

          Làng có Đình, đền, chùa là nơi tín ngưỡng của nhân dân và cũng là trung tâm giao lưu sinh hoạt văn hóa của làng, xóm.

          Chùa làng Vũ Lăng nằm ở khu rìa làng, Chùa có khuôn viên rộng rãi, khang trang, là nơi sinh hoạt tôn giáo của các tăng, ni, phật tử trong mùa an cư kết hạ.

Về kiến trúc, chùa được thiết kế: Ngôi Tam Bảo ở chính giữa khuôn viên Chùa, sau cổng Tam quan là lầu Quan Âm, tiếp đó sau Tam Bảo là dãy nhà gồm Nhà Tổ, Nhà Mẫu và Nhà Vong, khuôn viên bên ngoài bao bọc bởi 2 dãy nhà 2 tầng gồm nhà tăng, nhà ni phục vụ việc học tập của các tăng, ni mỗi mùa an cư kết hạ, xen kẽ là khu vực nhà ăn, nhà bếp và sinh hoạt của Chùa.

Hàng năm, ban quản lí khu di tích chùa đều tổ chức những lễ hội rất long trọng. Đặc biệt là vào dịp Lễ Vu Lan, Lễ Phật Đản… Tại đây có một số hoạt động như rước Phật và một số hoạt động văn hóa bên lề như liên hoan văn nghệ …

Chùa Vũ Lăng thu hút rất nhiều phật tử mọi nơi đổ về như một cuộc hành hương nhằm cầu mong phúc lành. Đến với chùa Vũ Lăng là đến với một nơi thanh lọc để tâm hồn ta trở nên hướng thiện hơn. Dù bị tàn phá bởi thời gian như thế nào chăng nữa thì ngôi chùa này vẫn trở thành một điểm đến tâm linh, một niềm tự hào của người dân Kinh Bắc, cũng là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Mỗi chúng ta cần có ý thức bảo vệ giữ gìn để ngôi chùa ấy có thể linh thiêng, còn mãi.